DIC-Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Điện Biênhttps://stttt.dienbien.gov.vn/assets/images/logo.png
Thứ sáu - 11/10/2013 05:51
Bộ luật lao động chính sách tiền lương được áp dụng
DIC - Sau 10 năm thực hiện cải cách chính sách tiền lương có thể thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt thì có một số hạn chế vẫn chưa được khắc phục triệt để. Đó là chính sách tiền lương chưa động viên được cán bộ, công chức và người lao động gắn bó, tận tâm với công việc. Mức lương tối thiểu hiện nay chưa bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu. Quan hệ tiền lương hiện hành vẫn mang tính bình quân và thấp hơn nhiều so với quan hệ tiền lương trên thị trường.
Hệ thống thang, bậc lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang còn phức tạp, lạc hậu. Việc nâng bậc, nâng ngạch chưa theo yêu cầu của vị trí việc làm, chưa khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập hiện còn nhiều bất cập. Tiền lương của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở một số doanh nghiệp nhà nước quá cao so với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tạo ra sự bất hợp lý giữa các khu vực. Nhìn nhận rõ những hạn chế này, tại Kết luận Hội nghị lần thứ 5 (Khóa XI), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề nghị xây dựng Đề án cải cách chế độ tiền lương giai đoạn 2013 - 2020 song hành với xây dựng các đề án có liên quan như cải cách bộ máy hành chính, điều chỉnh chế độ hoạt động đối với khu vực dịch vụ công... Kết luận Hội nghị Trung ương 5 cũng nhấn việc thực hiện các giải pháp đột phá về cơ chế nhằm tạo nguồn lực bền vững để góp phần cho cải cách tiền lương đạt được kết quả thực sự. Nhưng khu vực hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể, khu vực sự nghiệp công và khu vực doanh nghiệp nhà nước có chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức khác nhau. Do đó, phải sử dụng chính sách tương ứng với đặc điểm hoạt động của từng nhóm công việc, không thể áp dụng một chính sách chung cho ba khu vực này. Đồng thời, cần quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo được xác định trong các nghị quyết của Trung ương, đặc biệt quan điểm tiền lương là chi cho đầu tư phát triển, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ và minh bạch hóa hoạt động công vụ. Gắn cải cách tiền lương với cải cách hành chính, tinh giản bộ máy, tái cấu trúc nền tài chính công, tái cấu trúc đơn vị sự nghiệp công và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, cải cách tiền lương nhất thiết phải đi cùng với việc đổi mới, sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị theo hướng chuyển mạnh mô hình từ kiểu truyền thống ngạch, bậc đã tồn tại khá lâu trong bộ máy hành chính Nhà nước sang mô hình vị trí việc làm. Theo mô hình này, tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức sẽ được trả đúng với vị trí người đó làm việc, thay vì theo ngạch bậc như hiện nay. Sự chuyển hướng này sẽ thúc đẩy việc sắp xếp, tinh giản bộ máy, sử dụng hiệu quả người làm việc trong cơ quan. Và có thể thấy, khi cán bộ, công chức, người lao động có được công việc phù hợp chuyên môn và được trả lương tương xứng thì chắc chắn sẽ có động lực làm việc tốt hơn. Một trong những yếu tố thuận lợi để cải cách mô hình tổ chức của các cơ quan thuộc khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp công là QH đã thông qua Luật Công chức, Luật Viên chức... Chính phủ, các bộ, ngành cũng đã ban hành một số văn bản để hướng dẫn thực hiện. Hiện nay, tiền lương tại khu vực hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể và khu vực sự nghiệp công do ngân sách nhà nước chi trả, các doanh nghiệp nhà nước trả lương cho người lao động từ lợi nhuận của hoạt động. Bộ phận quản lý doanh nghiệp được trả lương theo quy định của cơ quan có thẩm quyền. Việc cải cách tiền lương trong khu vực doanh nghiệp nhà nước sẽ điều chỉnh theo hướng xác định khung tiền lương cơ bản có khống chế mức lương tối đa đối với viên chức quản lý doanh nghiệp nhà nước gắn với kết quả sản xuất, kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn. Đối với khu vực các cơ quan hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể sẽ trả lương theo chất lượng công việc của từng vị trí việc làm được xác lập trong bộ máy. Khu vực sự nghiệp công sẽ có bước đột phá mạnh mẽ, đồng bộ với lộ trình tăng giá dịch vụ công và xây dựng cơ chế tự chủ, lấy nguồn thu được từ cung cấp dịch vụ để tổ chức bộ máy, trả lương, đầu tư cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng dịch vụ. Phần ngân sách nhà nước trả lương nhóm này sẽ chuyển cho khu vực hành chính. Như vậy, tổng quỹ tiền lương sẽ không tăng lên, có nguồn lực để cải cách tiền lương khu vực hành chính. Hướng đi này sẽ tháo gỡ được vướng mắc lớn nhất hiện nay là lấy nguồn lực từ đâu để tiến hành cải cách tiền lương. Bên cạnh đó, tại Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng xác định mục tiêu không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người có công và bảo đảm an sinh xã hội là một nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị và là trách nhiệm của toàn xã hội. Phấn đấu đến năm 2015, cơ bản hoàn thành mục tiêu bảo đảm các gia đình người có công có mức sống tối thiểu bằng mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn; đến năm 2020, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội bao phủ toàn dân; bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 cũng xác định cụ thể những nhiệm vụ, giải pháp thực hiện cụ thể. Tôi nghĩ rằng, ở các góc độ khác nhau, mỗi cơ quan, tổ chức và địa phương đều có thể xác định rõ những việc mình cần làm để thể chế hóa quan điểm trên của Đảng. Các chính sách an sinh xã hội nên thiết kế theo ba nhóm chính sách gồm: nhóm chính sách phòng ngừa; nhóm giảm thiểu rủi ro; và nhóm khắc phục rủi ro. Để thực hiện nhóm chính sách phòng ngừa, QH đã quyết định đưa dự án Luật Việc làm vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013. Tương tự, để thực hiện nhóm chính sách phòng ngừa rủi ro, QH cũng đưa dự án Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi), dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013. Để thực hiện nhóm khắc phục rủi ro, trong thời gian qua, Nhà nước đã triển khai thực hiện nhiều chính sách trợ cấp, bảo trợ xã hội. Ủy ban Về các vấn đề xã hội đang phối hợp với bộ, ngành để hoàn thiện các dự án Luật Việc làm, dự án Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi), dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) trình ra QH cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ Năm tới. Trong đó, dự án Luật Việc làm sẽ tập trung chính sách đối với lực lượng lao động phi chính thức. Quan điểm xuyên suốt của dự án luật này hướng đến mục tiêu tăng số việc làm trong xã hội, tạo việc làm ổn định và môi trường làm việc an toàn cho nhóm lao động không chính thức. Một chính sách mới của dự án Luật Việc làm là về việc làm công, để sao cho động viên bộ phận lao động khi có những cú sốc kinh tế. Chính sách này hướng đến thị trường lao động khi có những cú sốc kinh tế, tập trung bộ phận lao động thất nghiệp vào khu vực việc làm công để có việc làm tạm thời, thu nhập nhất định để vượt qua giai đoạn khó khăn của nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Luật Bảo hiểm xã hội sẽ được sửa đổi theo quan điểm mở rộng đối tượng tham gia và quan điểm đóng hưởng. Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi) tiếp tục mở rộng lộ trình y tế toàn dân, bảo đảm Nhà nước và nhân dân cùng tham gia đóng góp để chia sẻ trong bảo hiểm y tế, tăng lượng người tham gia. Thách thức lớn nhất đối với xây dựng dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) và dự án Luật Bảo hiểm y tế (sửa đổi) là phải xác định sự đóng góp của Nhà nước, của người dân như thế nào để phù hợp với khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ, cũng như mức sống của người dân. Ủy ban Về các vấn đề xã hội đang đề nghị Bộ Y tế và Bộ Tài chính phối hợp xây dựng lộ trình lâu dài đối với việc thực hiện hai chính sách an sinh xã hội này. Trong đó, trong từng thời kỳ xác định mức hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng khác nhau, mức đóng góp của người dân. Lộ trình này sẽ cho phép ước lượng khả năng chịu đựng của Nhà nước và người dân đối với các quy định pháp luật khi đi vào thực tiễn. Yêu cầu này cũng xuất phát từ một nguyên tắc bất di bất dịch trong xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật là phải xác định được nguồn lực để thực hiện các chính sách. Mặt khác, khi nguồn lực thực hiện được minh bạch, công khai sẽ tăng tính khả thi cho mỗi chính sách, cũng như sự tham gia của các cơ quan và người dân.
Tác giả: Trương Thị Mai Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội